Thánh thể

Thần Học và Linh Đạo Thánh Thể Theo Thánh Phaolô

Nguyên Lý Hiệp Thông – Bữa Tiệc của Chúa – Tưởng Niệm Đức Kitô

Dẫn Nhập

Theo thứ tự thời gian, Thư Thứ I của Thánh Phaolô gửi cho các tín hữu Côrintô nhằm trả lời cho những chất vấn thời sự, những thách đố tôn giáo, văn hoá và xã hội liên quan đến Thánh Thể mà Cộng Đoàn Giáo Hội tiên khởi phải đối diện, là chứng từ cổ xưa, được hình thành sớm nhất trong các bản văn tường thuật của Tân Ước (53 và 62 A.D). Suốt một phần tư thế kỷ sau khi Đức Giêsu tử nạn, phục sinh và lên trời, các Kitô hữu vẫn tiếp tục tụ họp vào “Ngày thứ nhất trong tuần” để cùng nhau chia sẻ bữa ăn hiệp thông mà tưởng nhớ đến Người (Cv 2,42). Trong cảm thức và suy tưởng của Phaolô, Thánh Thể là một truyền thống sống động theo dòng lịch sử. Chính người đã từng xác nhận nhu cầu phải “truyền lại” điều đó, và đó cũng là điều người đã “lãnh nhận từ nơi Chúa”, nghĩa là từ truyền thống đức tin của Cộng Đoàn Kitô hữu đương thời (1Cr 11,23-25), biểu hiện qua các cuộc cử hành phụng vụ (1Cr 15,3-5). Đức Kitô, Đấng Phục Sinh thực sự đến hiện diện với các tín hữu, để các tín hữu được đi vào trong sự hiệp thông tình yêu với Người và với nhau trong bối cảnh nghi lễ đó. Bởi vậy, dựa vào cội nguồn Thánh Truyền, cùng với những thao thức và lòng nhiệt thành trong nỗ lực rao giảng sứ điệp Tin Mừng, đặc biệt trước tình huống sống đạo của Cộng Đoàn tín hữu Côrintô, Phaolô đã suy luận về “Bữa Tiệc của Chúa” (1Cr 11,17), biện biệt những yếu tố cốt yếu, phân giải để diễn tả nội dung đức tin, đồng thời khai sáng một giáo thuyết xúc tích về bí tích Thánh Thể.

Thực ra, với mục đích khuyên bảo các tín hữu sám hối, canh tân đời sống, duy trì chân tính niềm tin, cũng như đào sâu nội dung mầu nhiệm thánh thiêng được cử hành để tưởng nhớ Đức Kitô, Phaolô hết sức nhấn mạnh đến tinh thần hiệp thông Thánh Thể, đồng thời thôi thúc mọi thành phần Dân Chúa thăng tiến trong tình bác ái giữa một thế giới phân hoá tiêm nhiễm trào lưu thế tục. Chính vì thế, khi nhận thấy có sự chia rẽ giữa các tín hữu tại Côrintô, nẩy sinh và lan dần theo những quan điểm sai lầm về tự do, để rồi gây ra những tranh chấp, lạm dụng, dành giật địa vị, kỳ thị phân biệt tại các bữa ăn huynh đệ, Phaolô phải lên tiếng cảnh tỉnh, vừa giải thích, vừa biện giáo để chính thức minh định Thánh Thể là Nguyên Lý Hiệp Thông Cộng Đoàn, là Bữa Tiệc của Chúa, là Nghi Lễ Tưởng Niệm Đức Kitô, trong đó Thân Mình của Người là Giáo Hội được thiết lập. Đối với Phaolô, tất cả nội dung cuộc cử hành Thánh Thể, tuy mang nhiều chiều kích ý nghĩa, toả sáng ở những tầm mức quan trọng khác nhau, nhưng kết tụ vào một tâm điểm, đó là “loan truyền” sự chết của Đức Kitô cho tới ngày Người vinh quang ngự đến (1Cr 11,26). Như thế, Thánh Thể là bí tích của sự gặp gỡ giữa Đấng “đã đến” và “sẽ đến” với Cộng Đoàn các tín hữu, hiệp thông với nhau để cử hành cuộc tưởng niệm Hy Tế Vượt Qua, kính nhớ cuộc khổ hình sinh ơn cứu độ và sự phục sinh vinh hiển của Người. Trong viễn tượng và ý hướng cánh chung đó, chúng ta có thể khảo sát những nội dung chính yếu của thần học và linh đạo Thánh Thể hàm chứa trong Thư Thứ I cũng như trải dài trong Thư Thứ II của Thánh Phaolô gửi cho Cộng Đoàn tín hữu Côrintô (1Cr 10,14-22; 11,17-34; 13,4-8; 2Cr 5,14-15; 13,11-13).

1. Thánh Thể: Nguyên Lý Hiệp Thông (1Cr 10,14-22)

Như đọc thấy trong các bản văn tường trình, nguy cơ có thể làm băng rã Cộng Đoàn Côrintô ngày đó là sự kiện lạm dụng tự do, cũng như tình trạng sống buông xả, tự tiện, vô luân của một số tín hữu vì bất đồng quan điểm về những tiêu chuẩn đạo đức, giá trị luân lý và ân ban của Thần Khí (1Cr 1,11; 5,1-6, 20; 7,1-9, 10,16; 10,1-11). Viện cớ là đã được thanh tẩy trong Máu Đức Kitô, được giải thoát khỏi quyền lực tội lỗi, được hưởng dùng một thứ lương thực linh thiêng, và cuộc sống hiện tại được bảo đảm, nên những người này tự cho mình là tiến bộ, “trưởng thành” về mặt tâm linh đến độ nghĩ rằng tự do là “được phép làm mọi sự” (1Cr 10,23). Một thí dụ điển hình cho thái độ tự mãn hay tự tin quá đáng đó là việc ăn thịt cúng tế và tham dự các nghi lễ tôn vương tà thần, mà không quan tâm, không cần ý thức rằng hành vi này đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực, làm cớ vấp phạm cho nhiều tín hữu đơn thành khác trong Cộng Đoàn. Phaolô đã viết thư phản bác, thuật lại lịch sử như điều cần thiết nhất để duy trì căn tính Thánh Thể, để nhắc nhở Cộng Đoàn về ý nghĩa nguyên tuyền của việc tụ họp nhau khi ăn Bữa Tối của Chúa (1Cr 10-11). Nếu cử hành Thánh Thể, như truyền thống ghi nhận, là “loan truyền Chúa đã chịu chết, cho tới ngày Chúa đến” (1Cr 11,26), thì việc “tưởng nhớ đến Người” phải nối kết với cuộc sống yêu thương, bác ái và hiệp nhất trong Cộng Đoàn. Vì thế, tự nhận mình là người trung gian có thẩm quyền trong truyền thống, Phaolô thuật lại việc Đức Kitô thiết lập Thánh Thể, triển khai nội dung nghi thức tưởng niệm cái chết và sự Phục Sinh của Người, làm sáng tỏ ý nghĩa nền tảng của sự hiệp thông giữa các tín hữu, cũng như phác thảo những tiêu chuẩn đạo đức của linh đạo Thánh Thể.

Thực ra, đối với Phaolô, của dâng cúng, tự bản chất, cũng chỉ là thức ăn bình thường, và người có thể bao dung cho chuyện này. Thế nhưng, việc cố tình ăn uống tế phẩm trở thành vấn đề nổi cộm gây ra nhiều ngộ nhận trong Cộng Đoàn Côrintô, vì người ăn mang thái độ tự tôn, trịch thượng, thách thức, miệt thị, chế diễu kẻ không ăn. Và ngược lại, kẻ không ăn tự ti, hoang mang theo những mặc cảm bị loại trừ hoặc tỏ thái độ nghi ngờ đối với người ăn. Ý thức được vấn nạn trên, và do bối cảnh tranh luận, nhất là sự hiệp nhất trong đức tin của Cộng Đoàn là đòi hỏi bức thiết, Phaolô đã phải lưu ý, xác định lại ý nghĩa trọng tâm của các hy tế từ trong Cựu Ước, đồng thời khẳng định sự bất khả tương hợp giữa việc tham dự Bàn Tiệc Thánh Thể với chuyện ăn của cúng tế (1Cr 10,14-19). “Anh em không thể vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được; anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa, vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được” (1Cr 10, 21). Đây là đòi hỏi nội tại, thích ứng với niềm tin Kitô giáo, nghĩa là chỉ tôn thờ và kết hiệp với một Thiên Chúa duy nhất, là Đấng tự truyền đạt chính mình và mạc khải trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Chính nhờ Người mà Thiên Chúa đến với con người và trong Người mà con người đến được với Thiên Chúa. “Trong Đức Kitô, Thiên Chúa đã cho thế gian được hoà giải lại với Người” (2Cr 5,19). Đó là Tin Mừng, là sứ điệp Kitô giáo, đặt nền tảng cho lời tuyên xưng niềm tin, đồng nghĩa với việc sống trong Người, hiệp thông với Người, để Người trở thành tiêu chuẩn tối hậu cho toàn bộ cuộc sống. Bởi vậy, việc ăn tế phẩm diễn ra tại Côrintô đã gây ra bao nhiêu chuyện rắc rối. Dù thế nào, thì cũng là một hình thức phối hợp với tà thần, tôn thờ ngẫu tượng, xa lìa Đức Kitô và Thân Mình Giáo Hội của Người. Như Phaolô nhận định, có nhiều người trong Cộng Đoàn đã rơi vào tình trạng buông thả, phóng đãng, mất đi sự tự do đích thực của con cái Thiên Chúa. “Vì thế anh em thân mến, hãy xa lánh việc thờ ngẫu tượng. Tôi nói với anh em như nói với những người khôn ngoan hiểu biết; anh em hãy suy xét điều tôi nói” (1Cr 10,14). Với những lời khuyến cáo ấy, Phaolô gợi lại một sự kiện tiêu biểu trong Kinh Thánh xẩy ra vào thời Xuất Hành, đó là trường hợp nhiều người đã phải chết nơi sa mạc như, và hiển nhiên là những hệ quả của tội tôn thờ ngẫu thần, quay mặt lại với Thiên Chúa (1Cr 10,6-11; Xh 32,6).

  • Một Cộng Đoàn – Một Tấm Bánh

Đối với Phaolô, chỉ có Đức Kitô là Tế Phẩm duy nhất của Giao Ước Mới. Và khi các tín hữu ăn và uống Mình và Máu Thánh Người, họ thực sự bước vào tương quan “tình yêu-sự sống” với Người, trở nên một với Người, đồng thời được đưa vào tình hiệp thông tương tại, tương thuộc và liên đới với nhau, hợp thành một Cộng Đoàn, một Thân Mình. Do đó, việc công khai ăn uống lễ vật cúng tế, mà không quan tâm đến tính duy nhất của niềm tin vào Đức Kitô là thái độ ngạo mạn cố tình đoạn giao với Người, cũng như chủ ý phá vỡ sự hiệp thông trong Cộng Đoàn Giáo Hội. Tất cả đời sống Thánh Thể quy hướng về mối liên hệ “bất khả phân ly” này với Đức Kitô và các chi thể của Người.

Tuy nhiên, không phải Phaolô chỉ khuyên nhủ hay cảnh báo các tín hữu Côrintô, nhưng còn đề cập đến vô vàn ân huệ phát xuất từ lòng quảng đại của Thiên Chúa trong lịch sử cứu độ. Chủ đích sâu xa là giúp các tín hữu hiểu biết quá trình hoạt động của ơn Chúa, để có thể nhận thức được mối liên hệ sâu đậm với truyền thống tế tự trong Kinh Thánh cũng như chiều kích phổ quát của ơn cứu độ trong Đức Kitô. Do đó, Bữa Tiệc Thánh Thể chính là Hy Lễ Tạ Ơn, vừa mang ý nghĩa một lời đáp tri ân với mạc khải của Thiên Chúa từ trong Cựu Ước, vừa chứa đựng lời loan báo về Đức Kitô, Đấng mà trong Người, mọi sự được dựng nên, và nhất là từ nơi Người tuôn trào mọi thứ ân sủng rạng ngời. Theo nghĩa này, có thể nói, tất cả thao thức của Phaolô là trở về với cội nguồn Kinh Thánh, để diễn giải qua ngôn từ biểu tượng những hồng ân dạt dào của Thiên Chúa đã ban cho Israel ngày xưa là Dân được tuyển chọn, cũng như cho Cộng Đoàn Kitô hữu ngày nay là Dân được thánh hiến trong Giao Ước Mới. Vì chính “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta” (1Cr 1,9). Toàn bộ, theo lối nhìn của Phaolô, là một dòng liền mạch của lịch sử cứu độ, trong kế hoạch nhiệm mầu của Thiên Chúa. Người là Đấng đã “khởi sự” và “sẽ hoàn tất” việc cứu thoát nhân loại khỏi tình cảnh nô lệ cho tội lỗi cùng với những hệ quả là sự chia rẽ bất hoà, tha hoá và đánh mất sự duy nhất trong niềm tin. Bởi vậy, khi nói đến ơn “thanh tẩy”, Phaolô nhắc đến biến cố “vượt qua Biển Đỏ”, nghĩa là ơn được Thiên Chúa giải thoát “dưới đám mây và trong lòng biển, để theo ông Môsê” bước vào đời sống mới (1Cr 10,2; Xh 14,22). Hơn nữa, nếu trong cuộc lữ hành sa mạc, Dân Chúa đã được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng “một thức ăn linh thiêng” (1Cr 10,4; Xh 16,4), được cùng uống một dòng “nước chảy ra từ tảng đá linh thiêng vẫn đi theo họ” (1Cr 10,4; Xh 17,6), thì ở đây, Mình và Máu trao hiến của Đức Kitô chính là lương thực thần linh cho Cộng Đoàn các tín hữu trên con đường trần thế. Vì vậy, Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến một truyền thống Kinh Thánh đã hình dung “Tảng Đá ấy chính là Đức Kitô” (1Cr 10,4; Ds 20,8), từ nơi Người mà phát xuất dòng nước linh thiêng nhiệm mầu.

Với niềm xác tín: “Đức Giêsu là Đấng Kitô” của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng có trước muôn loài, vẫn luôn hiện diện, hoạt động trong lịch sử, tiếp tục đồng hành, đồng bàn với mọi người dự tiệc

Thánh Thể, nên Phaolô nhận định chỉ có Thiên Chúa là Đấng thi ân giáng phúc cho con người trong Đức Kitô. Bởi lẽ tất cả ơn cứu độ đã được hoàn tất nơi Người, nên mọi vinh quang, danh dự và muôn lời chúc tụng từ ngàn xưa cho đến muôn đời đều quy về Người. Người “đã trở nên sự khôn ngoan của chúng ta” (1Cr 1,30). Như vậy, mặc dù nhờ vào ân sủng chan hòa trong Đức Kitô, các tín hữu được giải thoát khỏi sự vô thường của thời gian, khỏi quyền lực tội lỗi trong quá khứ, nghĩa là được tự do, được nâng lên từ phận làm người đến bậc làm con Thiên Chúa, để rồi “được phép làm mọi sựnhưng không phải mọi sự đều có ích” hay “mọi sự đều có tính cách xây dựng” (1Cr 10,23). Hiểu theo nghĩa đó, tự do Kitô giáo là sự tự do nội tâm gắn liền với tinh thần trách nhiệm, vượt qua thái độ kiêu mạn của “cái tôi tự-thân” để phát huy sự sống trong “cái tôi tương-thân” vì liên quan đến lợi ích của mọi thành phần trong Cộng Đoàn. Nói cách khác, tự do đích thực trong Đức Kitô là một ơn gọi, một quà tặng quý giá, không chỉ dừng lại nơi khả năng hay trách nhiệm của mỗi cá nhân về lợi ích riêng đời mình, nhưng còn mang chiều kích Giáo Hội, mở ra cho công ích. Tự do chỉ đúng với ý nghĩa chính đáng của Kitô giáo khi tự do được thể hiện trong tình liên đới, đồng thời dẫn đưa vào tình trạng hiệp thông với tha nhân. Phaolô tổng lược nhận thức đó: “Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác” (1Cr 10, 24).

Như vậy trong cuộc cử hành Thánh Thể, việc “loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11,26) là hành vi vượt qua cái tôi ích kỷ như thể chết đi với tội lỗi, để được tái sinh trong tự do và bước vào tình hiệp thông với Đức Kitô và với nhau trong tư cách là các thành viên của một Cộng Đoàn. Tuy mỗi người nhận được những ân sủng của Thiên Chúa theo nhiều mức độ khác nhau, nhưng không phải để “sở hữu” cho riêng mình, mà thực sự là để “hiện hữu” sung mãn hơn trong tình yêu và chân lý, trong các mối tương giao nghĩa thiết, gắn bó chặt chẽ như các chi thể của một Thân Mình (1Cr 10,17). Đặc sủng bao giờ cũng là đoàn sủng. Theo lối nhìn của Phaolô, các tín hữu không thể sống bất cẩn hay bất cần theo nghĩa chỉ sống theo “lương tâm của mình”, và như thế là đủ. Nhưng Bữa Tiệc của Chúa mở ra cho mọi chiều kích hiệp thông, và do đó cần phải lưu ý đến “lương tâm của người khác”, như thể tất cả cùng mang chung một trách nhiệm về cuộc đời của nhau (1Cr 10,29). Đây chính là nguyên lý hiệp thông Thánh Thể, chủ yếu đòi hỏi các Kitô hữu trong Cộng Đoàn: “dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm tất cả để tôn vinh Thiên Chúa” (1Cr 10, 31). Phaolô đưa chính mình như một trường hợp cụ thể: “Cũng như tôi đây, trong mọi hoàn cảnh, tôi cố gắng làm đẹp lòng mọi người, không tìm lợi ích cho riêng tôi, nhưng cho nhiều người để họ được cứu độ. Anh em hãy bắt chước tôi như tôi bắt chước Đức Kitô” (1Cr 11,1). Thánh Thể cho thấy rõ việc xây dựng mối dây hiệp nhất Cộng Đoàn với mọi ân huệ được ban tặng cho mỗi thành viên là cách “sống trong Đức Kitô” theo cấu trúc Giao Ước Mới (1Cr 11,25; Ep 4,7). Đó là bước vào đời sống tự do đích thực trong vương quyền của tình yêu tự hiến, là hiện hữu “bởi” và “cho” trong sự hiệp thông mà Đức Kitô đã đem lại cho các tín hữu nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

Với nhận thức đó, khi bánh và rượu được hiến dâng trong các nghi thức phụng vụ để trở thành Mình và Máu Thánh Đức Kitô thì các tín hữu đồng thời cũng được thánh hiến và tháp nhập vào Thân Mình của Người. Trong Thánh Thể, Giáo Hội không phải là một thực thể trừu tượng phi ngã, nhưng là Cộng Đoàn qui tụ những ngôi vị sống động, những người con đích thực của Thiên Chúa theo hình ảnh và kiểu mẫu Đức Kitô. Nói cách khác, Thánh Thể là môi trường thiết yếu cho tình yêu và sự sống toàn vẹn của toàn thể Cộng Đoàn Giáo Hội. Thánh Thể là trung tâm gặp gỡ nối kết tình thân, bao hàm mối tương quan liên vị cộng đồng, để mọi người nên một với Chúa và làm một với nhau. Nói theo kiểu Thánh Phaolô, sống tinh thần Thánh Thể là sống “trong Đức Kitô, sống cùng Đức Kitô và cho Đức Kitô”, Đấng là Đầu của một Thân Mình (Gl 2,19; Rm 14,17; Pl 1,2; 1Cr 12,12). Chính từ nơi Người mà toàn thể Thân Mình nhận được sự sống dồi dào, với hết ân huệ này đến ân huệ khác, để tăng trưởng trong trách nhiệm xây dựng lẫn nhau. Yêu mến Người cũng là mến yêu các chi thể của Thân Mình Người, vì ý thức rằng: “nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1Cr 12, 26). Bởi đó, theo quan điểm của Phaolô, cho dù mọi tín hữu đã được tự do, được phép làm mọi sự, và việc ăn thịt cúng có hợp pháp đi nữa, thì cũng nên hy sinh từ bỏ. Vì tự do trong Đức Kitô được thiết lập và phát huy trên nền tảng hiệp thông, vượt trên lối sống tự tiện thoải mái cho riêng mình. Và đây mới ý nghĩa đích thực của tự do, cũng là khả năng đáp trả của con người với cảm thức liên đới phục vụ, cùng hoà điệu cảm thương, để thoát khỏi vòng cương toả và định kiến của một xã hội hưởng thụ. Đối với hiện hữu Kitô, tự do và ý thức trách nhiệm luôn phối hợp vì lợi ích chung, nhằm xây dựng một Cộng Đoàn thuận thảo gắn bó, hướng tới cội nguồn tình yêu đích thực, là tình yêu đón nhận và trao ban sự sống.

  • Một Thân Mình – Một Hy Lễ

Trong viễn cảnh này, có thể hiểu mối quan tâm của Thánh Phaolô là làm sao cho các tín hữu ở Côrintô cảm nhận được ý nghĩa chân thực của Thánh Thể như là Bữa Tiệc Hiệp Thông. Và trong Bữa Tiệc đó hàm chứa mối liên kết sâu xa, như một đòi hỏi tuyệt đối, giữa niềm tin và tình yêu, giữa tự do và trách nhiệm. Cảm thức hiệp thông Thánh Thể này không do nhiệt huyết phàm nhân, nhưng xuất phát từ chính nội dung của ơn cứu độ, cũng như từ thái độ mong muốn đáp trả tiếng gọi yêu thương của Thiên Chúa. Vì nhờ bí tích Thanh Tẩy mà tất cả các tín hữu đã được tháp nhập vào mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, được thánh hiến để trở nên chi thể của Thân Mình Người. Phaolô thâm tín về điều người đã lãnh nhận:

Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Chúa Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một Tấm Bánh và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể (1Cr 10,16-17).

Thế nhưng tại Côrintô, đặc trưng của đời sống Giáo Hội là tình hiệp thông đã bị tan vỡ. Căng thẳng xung đột nảy sinh do một số người giầu có trong Cộng Đoàn tụ tập thành một nhóm tách biệt, đoạn giao và từ chối chia sẻ thức ăn cho các thành phần nghèo đói. Đúng ra, Bữa Tiệc Thánh Thể phải là cơ hội kiến tạo và dưỡng nuôi hiệp thông như thuở ban đầu, khi mỗi thành viên đem theo phần ăn của mình, để rồi góp chung và cùng nhau ăn uống, nhưng lại thoái hoá thành cơ chế phân biệt giai cấp. Một Cộng Đoàn không còn “đồng tâm nhất trí”, nghĩa là thiếu hiệp nhất hay thiếu quan tâm đến nhau thì không thể gọi là đồng bàn Thánh Thể. Bởi vì, theo nghĩa tương quan liên vị, cốt lõi của Thánh Thể là tạo điều kiện, làm sao cho tất cả các thành viên tham dự có thể thuận tình gặp gỡ, vượt qua được những biên giới ngăn cách để thực thi yêu thương. Sự phân biệt đối xử căn cứ vào thế lực, địa phương, chủng tộc, phái tính, giai cấp xã hội hay địa vị sang hèn là hoàn toàn mâu thuẫn với tình yêu tự hiến và tinh thần phục vụ khiêm hạ của Đức Kitô trong biến cố Thánh Thể. Người là Đấng đã hoà giải mọi người trong chính cái chết đau thương để mở rộng con đường nối kết.

Thật vậy, hiệp thông là biến cố của Thánh Thể diễn ra ở tầm mức tương giao ngôi vị. Đây là lý do tại sao Phaolô đề cập đến việc ăn Bánh và uống Chén một cách bất xứng như là hành vi tự xét xử chính mình, nghĩa là “khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có tài sản” (1Cr 11, 22). Vì khi “dự phần vào Máu Chúa Kitô” là tham gia vào Giao Ước Mới được thiết lập nhờ Máu Người đổ ra. Sự thông phần vào hành vi tự hiến như thế là nội dung của niềm tin Kitô giáo, là điều cốt yếu nhất để tất cả cuộc sống của người tín hữu thực sự trở thành lời đáp sống động đối với Giao Ước Mới. Do đó, vấn đề “phạm đến Mình và Máu của Chúa” mà Phaolô chủ ý đưa ra (1Cr 11,27) cũng như việc “không phân biệt được Thân Thể Chúa là ăn và uống án phạt cho mình” (1Cr 11,29) chắc chắn có liên quan đến thực tại và tầm quan trọng của “Một Tấm Bánh – Một Thân Mình” theo nghĩa thâm sâu và trọn vẹn nhất.

Với một nhận thức như thế, ý tưởng truyền thống về “tội phạm sự thánh” có thể hội đủ cả hai ý nghĩa. Trước hết, đó là vấn đề của người ăn uống cách không xứng đáng, không hiểu rõ ý nghĩa, không có lòng tôn kính, không lãnh hội thấu đáo tính cách thánh thiêng của Mình Máu Thánh Chúa, hay không ý thức được mức độ “hiện diện đích thực và bản thể” của Đức Kitô trong tương quan với Bánh và Rượu, cũng như thái độ bàng quang, ơ hờ, hay đáp ứng dửng dưng với mầu nhiệm thánh thiêng trong cuộc cử hành phụng vụ. Thế nhưng, trong tư tưởng sâu rộng của Phaolô, mệnh đề “Thân Mình Đức Kitô” nhiều lần tiêu biểu cho Cộng Đoàn Giáo Hội (1Cr 12,27; Ep 4,12; 5,30; Cl 1,24), nên người phê phán, quở trách các tín hữu Côrintô đã gây bè kết đảng, kỳ thị và đố kỵ lẫn nhau, để rồi phá đổ tình hiệp nhất, vì không nhận thức được toàn thể Thân Mình Giáo Hội chính là Thân Mình Đức Kitô và các chi thể của Người. Đây là một chủ đề nổi bật, một định nghĩa rất họa hiếm dọi sáng các chủ đề khác trong toàn bộ thần học của Phaolô, khi người nhấn mạnh đến mối tương liên nội tại thâm sâu giữa “Thân Mình Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô” với “Thân Mình Thánh Thể” và “Thân Mình Giáo Hội” (1Cr 12, 27).

Từ những suy diễn trên, cũng như từ những kinh nghiệm đời thường, có thể nói, khi đến tham dự một bữa tiệc mà mọi người có mặt, chỉ để khích bác hơn là để hiện diện với nhau và cùng nhau ăn uống với ý thức tình thân, thì buổi họp Cộng Đoàn như thế dễ dàng trở thành vô nghĩa tầm phào. Phải chăng đây là lý do khiến cho Phaolô nhận định về những điều bất hạnh đã xảy đến cho Cộng Đoàn Côrintô như là hệ lụy của sự chia rẽ và thiếu tình hiệp thông, vì không ai biết chia sẻ cho người khác những gì mình đã lãnh nhận? Không có hiệp thông, cuộc tưởng niệm Đức Kitô cũng không “thành sự”, và do đó, cũng không thật sự có tình đồng bàn. Vì hiệp thông tại bàn ăn là hiệp thông sự sống: “Cho nên, thưa anh em, khi họp nhau để dùng bữa, anh em hãy đợi nhau. Ai đói thì ăn ở nhà, kẻo anh em đến họp mà hóa ra để bị kết án” (1Cr 11, 33-34). Và nếu muốn trung thành tuân giữ lệnh truyền của Đức Giêsu trong Bữa Tối Sau Cùng, thì theo Phaolô, Bữa Tiệc Thánh Thể thách đố các tín hữu phải phân biện, suy xét về những hành vi của mình, để khi ăn một bánh, uống chung một chén, họ nhận ra chính họ là chi thể của một Thân Mình. Và một khi Cộng Đoàn Kitô hữu không còn tình thân để mở rộng trái tim đón nhận nhau nữa, thì cuộc tưởng nhớ Đức Kitô và loan báo sự chết của Người, không những mất hết ý nghĩa, mà còn là một xúc phạm, làm ô uế thực tại thánh thiêng. Vì Thánh Thể vừa là lời tạ ơn khuôn đúc nên cách sống của các tín hữu, vừa là lời tra vấn thẩm xét nhận thức cũng như thái độ dấn thân phục vụ theo mẫu gương tự hiến của Đức Kitô.

Với phân tích của Phaolô, lòng tin vào Đức Kitô và cuộc cử hành Thánh Thể mang tính chất quyết định đối với mối liên hệ sâu xa với chính Cộng Đoàn các tín hữu. Một chi tiết chú giải cho thấy, trong khi Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật việc “phản bội” Đức Giêsu trước và sau biến cố Bữa Tối Sau Cùng (Mc 14,18-21; Mt 26,21-25; Lc 22,21-23). Phaolô lại mô tả điều đó như một sự “phản bội” xúc phạm đến tình yêu tự hiến của Người diễn ra ngay trong đêm khởi đầu cuộc khổ nạn. Sự phản bội như thế thậm chí được hiểu như thái độ ích kỷ, là hành vi gây thương tổn, xáo trộn và chia rẽ trong Cộng Đoàn các tín hữu. Nói theo kiểu hình dung, vì đó là những hố sâu ngăn cách, dẫn đến khủng hoảng chết chóc, làm cho nhiều người băng hoại, ốm đau, suy nhược tinh thần. Và cuối cùng, điều hiển nhiên là không thể tiêu hóa được của ăn linh thiêng đưa đến sự sống đích thực. Những ai tham dự Thánh Thể với những động lực bất chính hoặc chỉ sống cho riêng mình, thì cuộc tưởng niệm, thay vì là “loan truyền Chúa đã chịu chết, cho tới ngày Chúa đến” (1Cr 11, 26), lại có nguy cơ có thể trở thành lời “loan báo cái chết của chính mình” khi Chúa chưa ngự đến. Bởi vì trọng tậm của Thánh Thể, như hiệu quả của hồng ân cứu độ, là một chuyển động giải thoát con người từ những lối sống cô lập đơn lẻ, bị phân xé, để tháp nhập vào tình liên đới, vào Thân Mình duy nhất của Đức Kitô. Là một trong Người, nên một với nhau, các tín hữu cùng họp thành một Cộng Đoàn duy nhất, tương thuộc và tương kính, cùng nhau chia sẻ những phúc lành của Thiên Chúa. Thánh Thể được cử hành như một lời tuyên tín, thể hiện lòng trung tín gắn bó của các tín hữu đối với Đức Kitô và với Giáo Hội. Và đây chính là nguyên lý hiệp thông tạo cho cuộc cử hành Thánh Thể một ý nghĩa trọn vẹn, năng động và hiện thực.

Với viễn tượng như thế, kinh nghiệm về Thánh Thể là kinh nghiệm hiệp thông, và chỉ trong hiệp thông mới có kinh nghiệm thật về Thánh Thể. Bởi vì điều mà Cộng Đoàn thực hiện để tưởng nhớ Đức Kitô chính là cảm thức sâu đậm về tình yêu tự hiến của Người như lời Người truyền dạy, để có thể đáp trả bằng quyết định từ bỏ lối sống cũ với thái độ ngạo mạn, ích kỉ, toan tính bè phái mà tham dự vào một Tấm Bánh, một Chén Thánh, thông phần cùng một sự sống, cùng một tình yêu. Như vậy, Thánh Thể vừa dưỡng nuôi đời sống các tín hữu, vừa làm cho đời sống đó tăng trưởng trong ý hướng và hành vi hiến thân tưởng nhớ Đức Kitô và phục vụ lẫn nhau. Nhờ quyền năng của Thần Khí, Thánh Thể làm nên một Cộng Đoàn Giáo Hội “tương thân tương ái”, đích thực hiện diện với nhau, trong tình liên đới, trong mối quan tâm đến cuộc đời và vận mạng của nhau. Như thế, có thể nói, hiệp thông với Đức Kitô và với nhau là nền tảng cơ bản, là điều kiện thiết yếu cho cuộc cử hành Thánh Thể được “thành sự” đúng với ý nghĩa nguyên thuỷ, với chân tính, căn tính cũng như lý do hiện hữu của Cộng Đoàn tín hữu. Ở đâu có Cộng Đoàn thể hiện yêu thương thông hiệp, ở đó mới có sự thông phần xứng hợp vào nguồn ơn Thánh Thể. Vì chỉ có một một Bữa Tiệc của Chúa trong đó mọi người tham dự được “hiến dâng” và “thánh hoá”, hầu được biến đổi thành một Tấm Bánh, một Chén Thánh, một Cộng Đoàn kết liên vào một Thân Mình là chính Đức Kitô.

2. Thánh Thể: Bữa Tiệc của Chúa (1Cr 11,17-22)

Thánh Thể, theo Phaolô, là “Bữa Tiệc của Chúa” (1Cr 11,17-34); và đó là buổi họp của Cộng Đoàn trong tinh thần phục vụ yêu thương, một bữa ăn đặc biệt gọi là “Agape” của các Kitô hữu thời sơ khai (Cv 2,42-47). Khi đến tham dự, mỗi người thường mang theo thức ăn đồ uống, dù ít hay nhiều, để cùng nhau chia sẻ. Dự phần vào các bữa ăn ấy chứng thực tư cách thành viên và ý thức trách nhiệm của người tín hữu, bao hàm khả năng kiến tạo, nuôi dưỡng, nối dài tình bác ái, hướng tới sự hiệp nhất thâm sâu trong một Cộng Đoàn. Dù giầu sang hay nghèo khó, mọi người có thể ngồi bên nhau một cách thân tình. Đây là một Bữa Tiệc trọn gói với đầy đủ nghi thức tưởng niệm và của ăn thức uống cần thiết cho mọi người tham dự. Thế nhưng, thực tế tại Côrintô, vì xảy ra vấn đề phân cách, phân biệt đối xử với nhau, đồng thời xuất hiện những phô trương thế lực, xúi dục ganh đua giữa người tự do, kẻ nô lệ, người giầu sang, kẻ thấp hèn, nên việc cử hành Bữa Tiệc của Chúa đã biến nghĩa, biến chất thành thành những nghi ngờ ghen tị. Phaolô đã không ngần ngại trách cứ:

Nhân lúc đưa ra các chỉ thị này, tôi chẳng khen anh em đâu, vì những buổi họp của anh em không đem lại lợi ích gì, mà chỉ gây tai hại. Thật thế trước tiên tôi nghe rằng khi họp cộng đoàn, anh em chia rẽ nhau, và tôi tin là điều ấy có phần đúng. Những sự chia rẽ giữa anh em, thế nào cũng có, nhưng nhờ vậy mới rõ ai là người đạo đức chắc chắn (1Cr 11,17-19).

Theo dòng lịch sử, cũng như tình huống xã hội bấy giờ, Cộng Đoàn Kitô hữu lớn mạnh dần về số lượng, nên cần nơi chốn thích hợp để cử hành Bữa Tiệc của Chúa. Nhiều tài liệu cổ xưa cho thấy, những người khá giả trong Cộng Đoàn, nếu có nhà cửa rộng rãi, thì sẵn sàng giúp đỡ, cung ứng địa điểm cho việc tổ chức các sự kiện, các buổi họp chung và sinh hoạt phụng tự. Mỗi nhà có thể tiếp đón, qui tụ khoảng 50 tín hữu. Tuy nhiên, cũng từ đó mà nhiều vấn đề phức tạp do những cám dỗ ích kỷ liên hồi gây ra, dẫn đến sự vô cảm, chia rẽ ganh đua, thèm khát danh vọng trong Cộng Đoàn, làm mất đi bầu khí hiệp thông. Mọi người được mời đến dự tiệc Thánh Thể, nhưng không phải ai cũng được tiếp đón nồng hậu trân quý. Theo sự quy định của gia chủ, chẳng hạn, một phòng ăn nhỏ “hạng nhất” (triclinium) được dành cho nhóm khách đặc biệt, sang trọng, giầu có hay quyền thế. Đó có thể là những bạn bè thân thích, đồng nghiệp, cùng trình độ đẳng cấp với nhau, và họ có thể nằm thưởng thức các món ăn thịnh soạn. Trái lại, tại sân vườn (atrium) với “hạng phổ thông” là tụ điểm của dân nghèo căn cứ theo chủng tộc và giai cấp. Được tiếp đãi một cách miễn cưỡng, nên nhóm người yếu thế này thậm chí phải ngồi phía bên ngoài, chung quanh một hồ nước ở giữa, để rồi ăn uống những phần dư thừa từ bàn trên bưng xuống, hoặc có thể phải nhịn đói mà về. Hiện thực đối xử với nhau như thế đã làm mất đi tất cả ý nghĩa của Thánh Thể. Do đó, Phaolô chất vấn, lên tiếng bênh vực người nghèo, những người thua thiệt bị kỳ thị khinh chê, đồng thời đặt lại vấn đề cử hành Bữa Tối của Chúa, tìm về ý nghĩa thánh thiêng của hy lễ, của đạo lý Thánh Thể, và tái Phúc Âm hóa cho Cộng Đoàn Côrintô về ý nghĩa hiệp thông:

Khi anh em họp nhau, thi không phải là để ăn bữa tối của Chúa. Thật vậy, mỗi người lo ăn bữa riêng của mình trước, và như thế, thi kẻ đói, người lại say. Anh em không có nhà để ăn uống sao? Hay anh em khinh dể Hội Thánh của Thiên Chúa và làm nhục những người không có của? (1Cr 11,20-22).

Điều này ít nhất cho thấy, nếu không có sự bình đẳng và chia sẻ đồng đều, thì cuộc cử hành nghi lễ của Cộng Đoàn Kitô hữu sẽ làm mất đi ý nghĩa Thánh Thể, cho dù là tụ họp nhau để cầu nguyện nhân danh Đức Kitô. Nói cách khác, nếu không ý thức đầy đủ về “Bữa Tối của Chúa”, cũng như không định hướng cuộc sống cho phù hợp với nội dung cơ bản của những điều được cử hành, thì tất cả cuộc lễ đó có thể trở thành một sự kiện phàm tục, một bữa ăn của riêng mình, thuần túy là giao lưu phe nhóm theo kiểu sống như ngoài xã hội. Tất nhiên là chẳng còn gì là ý nghĩa chính đáng trong bối cảnh Hy Tế cứu độ của Đức Kitô, trong việc kết hiệp mật thiết với người và hiệp thông với nhau. Đó là lý do tại sao Phaolô bàn luận về những tình huống phức tạp từ một nhận thức xác thực đối với sứ điệp Tin Mừng:

Thưa anh em, anh em thử nghĩ lại xem, khi anh em được Chúa kêu gọi, thì trong anh em đâu có mấy kẻ khôn ngoan trước mặt người đời, đâu có mấy người quyền thế, mấy người quý phái. Song những gì thế gian cho là điên dại, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ khôn ngoan, và những gì thế gian cho là yếu kém, thì Thiên Chúa đã chọn để hạ nhục những kẻ hùng mạnh; những gì thế gian cho là hèn mạt không đáng kể, là không có, thì Thiên Chúa đã chọn để hủy diệt những gì hiện có, hầu không một phàm nhân nào dám tự phụ trước mặt Người (1Cr 1,26-29).

Ở đây, vấn đề đặt ra, theo Phaolô, là những ai tự cho mình khôn ngoan quyền thế, giầu sang thì cần lưu ý, chú tâm đến trách nhiệm đối với đồng loại, đặc biệt đối với những kẻ nghèo khổ khốn cùng trong Cộng Đoàn. Ngay từ đầu khi được “kêu gọi” làm Tông Đồ rao giảng Tin Mừng Đức Kitô (1Cr 9,1-14), chính Phaolô đã không hề đòi hỏi một đặc quyền hay phần thưởng nào khác hơn ngoài việc trở nên người tôi tớ khiêm hạ. Vai trò của người là bảo vệ, đùm bọc những kẻ bé mọn yếu kém mà chính Đức Kitô đã chịu chết thay cho. Với quan niệm về chức vụ lãnh đạo Cộng Đoàn như thế, nên phương pháp thi hành của Phaolô cũng rất khác biệt:

Tôi đã trở nên yếu với người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số nguời. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng (1Cr 9,22-23).

Trong ý hướng đó, đối với đức tin cũng như hiện hữu Kitô giáo, cử hành Thánh Thể là thực hiện lời cam kết gắn bó với Đức Kitô, đồng thời tham dự vào cuộc hạnh ngộ với các chi thể, nhất là với các chi thể yếu kém thiệt thòi của Người trong Cộng Đoàn. Vì nơi đây, cùng một Bàn Tiệc, tất cả mọi người, không phân biệt từ đâu đến với những đặc sủng, tài năng hay điều kiện kinh tế, văn hoá, đều được chia sẻ cùng một sự sống, một tình yêu, làm thành một Cộng Đoàn của những người đã được rửa tội nhân danh Đức Kitô. Đó là cơ hội để ra khỏi chính mình, để gặp gỡ đối thoại, và chứng thực cho niềm tin được ký kết trong Giao Ước Mới. Với những lời lẽ vừa xúc tích, khúc chiết vừa đậm nét biện giáo, Phaolô tìm về ý nghĩa nguyên thuỷ và mục đích của biến cố Thánh Thể mà Đức Giêsu đã thiết lập:

Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em: trong đêm bi trao nộp, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn, rồi bẻ ra và nói: “Đây là Mình Thầy, hiến dâng vì anh em, anh em hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy.” Cũng thế, sau bữa ăn, Người cầm lấy chén rượu và nói: “Chén này là Giao Ước Mới, lập bằng Máu Thầy; mỗi khi uống, anh em hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,22-25).

Trong các bản văn Tân Ước trình thuật về Bữa Tối Sau Cùng, có thể nói, đây là một đoạn đáng chú ý hơn cả. Với trình thuật ngắn gọn, Phaolô dựa vào truyền thống các Tông Đồ mà minh giải giáo lý chính thống về Thánh Thể như là Bữa Tiệc của Chúa. Đó cũng là nghi lễ phụng thờ thiêng liêng nhất, là trung tâm và cao điểm của phụng tự Kitô giáo, đặc biệt vào những thế kỷ đầu, để tưởng nhớ việc Đức Kitô trao hiến thân mình cho Cộng Đoàn Giáo Hội. Chính từ Bữa Tiệc này mà Giáo Hội được khai sinh, được thánh hoá và nhận ra mình là Thân Mình của Đức Kitô. Vì thế, họp nhau cử hành Thánh Thể là để tưởng nhớ Đức Kitô. Chỉ có một chủ sự, nhưng tất cả đều cử hành với cảm thức đức tin, với lòng mến chân thành nhờ cảm nhận được sự hiệp thông đích thân với Người và với nhau trong Thánh Thể, và chìm ngập trong tình yêu thương của đời sống mới. Thánh Thể thực sự là Bữa Tiệc của Chúa mà các tín hữu được mời gọi tham dự để đón nhận và thể hiện căn tính của mình dựa trên một nền tảng duy nhất, đó chính là Đức Kitô, Đấng đã chịu đóng đinh và phục sinh, Đấng mà tất cả tuyên xưng là Chúa (Kyrios). “Thật vậy, điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em” (1Cr 11,22). Đối với Phaolô, chính trong khung cảnh của bữa ăn hiệp thông này mà Thánh Thể được cử hành với tư cách là cuộc tưởng niệm Hy Tế của Đức Kitô, và đây là chóp đỉnh đời sống phụng tự của Giáo Hội, là nguồn mạch của sự hiệp nhất Kitô giáo ngay từ thuở ban đầu.

3. Thánh Thể: Tưởng Niệm Đức Kitô (1Cr 11,23-34)

Với tư cách là Hy Lễ Tạ Ơn của Cộng Đoàn các tín hữu, Thánh Thể tưởng niệm công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất trọn vẹn nơi Đức Giêsu Kitô. Không có gì trong cuộc đời của Người với mọi biến cố xảy ra mà không mang dấu ấn hy tế, vì Người là “Đấng đã sống vâng phục cho đến chết” (Pl 2,8). Nhờ Máu Người đổ ra trên Thập Giá để thiết lập Giao Ước mới, Thiên Chúa “đã đưa thời gian tới hồi viên mãn” (Ep 1,7-10; Cl 1,15-20) và ban ơn tha thứ cho con người, thâu họp tất cả thành một dân thánh. Tuy vậy, khi cử hành Thánh Thể, Cộng Đoàn các tín hữu không chỉ nhớ lại những lời tuyên bố, tái diễn những hành động mà Đức Giêsu đã thực hiện trong Bữa Tối Sau Cùng. Nhưng cử hành việc tưởng nhớ bằng cách hiện tại hoá Bữa Tiệc của Chúa như một biến cố cứu độ “lúc này và ở đây” trong cấu trúc vừa “làm việc này mà nhớ đến” Người, vừa “loan truyền” cái chết của Người cho tới ngày Người ngự đến (1Cr 11,22-26). Một điều đặc biệt, nếu đối chiếu các bản văn trình thuật về Bữa Tối Sau Cùng trong toàn bộ Tân Ước, thì nhận ra được Phaolô là tác giả duy nhất chủ ý ghi lại hai lần “mà tưởng nhớ đến Thầy” lúc Đức Giêsu dâng bánh và khi Người nâng chén (1Cr 11,24, 25).

  • “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”

Thế nên, theo tầm nhìn của Phaolô, đặc tính cốt yếu của cuộc cử hành Thánh Thể chính là thi hành mệnh lệnh cuối cùng và ý hướng quan trọng nhất của Đức Giêsu trong Bữa Tối Sau Cùng với Cộng Đoàn các môn đệ. Thuật ngữ “hãy làm mà nhớ” hay “hãy nhớ mà làm”, cũng như kiểu nói “càng làm càng nhớ” và “càng nhớ càng làm” ít nhất cũng gợi lên cho thấy chiều kích sống động của việc tưởng niệm trong Kinh Thánh. Những từ ngữ Do Thái “zikkaron, azkarah”, được chuyển dịch sang tiếng Hy lạp là “anamnesis, mnemosunon”, cũng diễn tả sự tưởng niệm, nhưng không đơn thuần là một chuyển động của hiện tại hướng về dĩ vãng, mà ngược lại, chính là “hiện tại hoá” và làm sáng tỏ một biến cố đã qua. Theo kinh nghiệm đó, tưởng niệm chủ yếu không phải là “nhớ suông” như một thực tại chủ quan chỉ xảy ra trong suy luận hay trong trí óc của con người, để rồi nhớ, và rồi quên. Dù khá nghịch lý, nhưng như thế, tưởng niệm cũng không chỉ là nhớ lại, nhớ về hay hồi tưởng, mà còn là nhớ đến, với tất cả lý lẽ và tâm tình của trái tim, qui hướng và quyện chặt với nhau. Như vậy, vừa nhớ vừa thương hợp lại thành một hành vi thương nhớ mang ý nghĩa biện chứng gắn bó giữa “nhớ mà làm” và xuyên thấu giữa “làm mà nhớ” (1Cr 11,24, 25).

Và đó cũng là văn cảnh giúp chúng ta có thể hiểu được một nghi lễ tưởng niệm chính thức, điển hình như Lễ Vượt Qua của Cựu Ước, vừa là dịp để Dân Do Thái, dân được tuyển chọn “nhớ về” những kỳ công mà Thiên Chúa đã thực hiện trong lịch sử cứu độ, nhưng đồng thời cũng bao hàm những nghi thức để “nhớ đến” tình thương của Người vẫn luôn tồn tại. Nói cách khác, tưởng nhớ là làm cho biến cố trung tâm này của ơn cứu độ thực sự trở nên hiện tại, và sinh hoa kết trái trong hiện tại. Bởi vì kinh nghiệm về tình thương của Thiên Chúa không phải chỉ dừng lại trong quá khứ mà toả sáng trong hiện tại, như một “ký ức hôm nay” vượt ra ngoài mọi hệ thống suy lý và tâm lý phân chia thời gian. Với cách hiểu như vậy, khi khẩn cầu Thiên Chúa nhớ đến Dân Người thì cũng có nghĩa là xin Người thực hiện và thông ban tình thương ấy “ở đây” và “lúc này” cho Cộng Đoàn tưởng niệm. Như lời Môsê: “Đức Chúa đã lập Giao Ước này không phải với Cha ông chúng ta, mà là với chúng ta, những người hôm nay đang ở đây, tất cả còn đang sống” (Đnl 5,3). Chính vì thế việc tưởng nhớ Đức Kitô trong Thánh Thể diễn ra như  một “biến cố” mang cùng một ý nghĩa tích cực, sống động với “thời khắc” (kairos) của ơn cứu độ, khởi xướng cuộc hội ngộ đích thực giữa Thiên Chúa và con người ngay trong hiện tại. Nói cách khác, tưởng nhớ trong Thánh Thể là hiện tại hóa ý nghĩa, giá trị và hiệu qủa vĩnh cửu của Giao Ước Mới, trọn vẹn và chung cuộc. Quá khứ trở nên đồng thời với Cộng Đoàn phụng vụ cử hành việc tưởng nhớ.

Như thế có thể thấy được tầm quan trọng và lý do Phaolô thâm tín về điều mình đã lãnh nhận và tại sao lại đặc biệt nhấn mạnh đến chiều kích tưởng niệm khi cử hành Bữa Tiệc của Chúa. Cử hành Thánh Thể trong khuôn khổ Bữa Tiệc Vượt Qua với cùng một ý nghĩa “tưởng niệm”, chính là cảnh vực thánh thiêng thích hợp nhất cho sự hiện diện đích thân của Đức Kitô với tất cả quyền năng của Người, cũng như hiệu lực của ơn cứu độ được hiển thị một cách mới mẻ. Dù cuộc tưởng niệm có thể chỉ là một “khoảnh khắc” vắn vỏi trong thời gian “giờ đây”, nhưng là một biến cố nói lên tất cả ý nghĩa của nguồn ơn cứu độ. Vì lúc nào Đức Kitô cũng đứng vững trên đỉnh viên mãn của thời gian. Với Phaolô, lệnh truyền: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy” bao gồm hành vi “làm việc này” gắn liền với mục đích mà “nhớ đến Thầy”. Bởi vì, “làm việc này” chính là cử hành Thánh Thể, là cầm lấy Bánh và Chén, đọc lời chúc tụng tạ ơn, rồi trao ban cho mọi người được thông phần vào Mình và Máu Đức Kitô. Và đó cũng là lúc để tưởng nhớ đến Người, đến tình yêu tự hiến của Người, đồng thời để loan báo cái chết của Người trên Thập Giá. Chính vì thế, việc “nhớ đến Thầy” còn là lời mời gọi hết sức sinh động giữa kinh nghiệm đón tiếp Người là “Đấng nhân danh Thiên Chúa mà đến” với Cộng Đoàn tín hữu trong cuộc cử hành Thánh Thể, và kinh nghiệm chờ đợi Người đến trong vinh quang.

  • “Loan truyền Chúa đã chịu chết”

Cũng chính trong viễn tượng này, đối với Phaolô, Thánh Thể cử hành biến cố Vượt Qua của Đức Kitô, và nhờ biến cố đó mà công trình cứu độ được hoàn tất. Tuy nhiên, ơn cứu độ vẫn tiếp tục lan toả kéo dài trong lịch sử nhân loại, mở rộng cho sự hiệp thông của tất cả thế giới. Cộng Đoàn tín hữu tham dự Bữa Tiệc của Chúa, mặc dù ở một nơi và một lúc nhất định, nhưng vẫn là cử hành hy lễ tưởng niệm một Đức Kitô Tử Nạn và Phục Sinh hiện diện trong Thần Khí của Thiên Chúa. Và như thế, theo lời Phaolô: “Cho tới ngày Chúa đến, mỗi lần ăn Bánh và uống Chén này, là anh em loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11,26). Ở đây, không phải Phaolô chỉ đề cập đến việc “loan truyền cái chết” mà cố tình bỏ qua lời công bố phục sinh là tâm điểm của cuộc cử hành Thánh Thể. Theo toàn bộ cấu trúc ý nghĩa và cảnh ngữ, Bữa Tiệc của Chúa tự bản chất là Bữa Tiệc với Đức Kitô Phục Sinh. Ngay trong câu nói: “Cho tới ngày Chúa đến” đã hàm chứa nội dung của lời tuyên tín “Chúa đã sống lại”.

Dù vậy, thiết tưởng cũng cần hiểu lý do khiến Phaolô đặc biệt nhấn mạnh đến việc “Chúa đã chịu chết” như thế. Phải chăng đây là một ngụ ý thần học sâu xa nhằm đối chất với những tư tưởng cực đoan, những trào lưu văn hoá của xã hội đương thời? Phaolô đã nhận diện những ảnh hưởng sâu nặng của các thứ ngẫu tượng trên sinh hoạt tôn giáo ở Côrintô, làm cho nhiều tín hữu hoang mang lầm lẫn, dẫn tới nhiều phản ứng khác nhau, đồng thời rơi vào tình trạng hư ảo, mất đi niềm tin chân thật. Vì thực ra, có một số tín hữu trong Cộng Đoàn ngày đó đã khởi xướng phong trào tôn thờ “Đức Kitô Phục Sinh” tách biệt khỏi “Đấng đã chịu đóng đinh.” Chủ ý là muốn công khai biện minh cho Cộng Đoàn thấy rằng điều mà đức tin Kitô giáo đòi hỏi không phải là “qua đau khổ để đến với vinh quang,” nhưng ngược lại, chính là “sống vinh quang mà không cần qua đau khổ.” Vì thế, không gì ngạc nhiên khi phát sinh những quan niệm sai lầm về đời sống mới trong Đức Kitô, giản lược thành một lối sống tự tiện, “tự do hưởng thụ”. Và tất nhiên không còn chỗ cho những hy sinh, khổ chế trong sinh hoạt đạo đức Kitô giáo. “Chúa đã sống lại rồi!”, nghĩ như vậy, nên nhóm tín hữu đó cho rằng “ăn chay hãm mình” mà làm gì, đau khổ bây giờ có ích chi? Để khẳng định điều đó đến mức tối đa, họ tuyên xưng một “Đức Kitô không Thập Giá,” nghĩa là từ chối bước theo Người vào con đường “tự hạ” khiêm nhu của tình yêu tự hiến. Quan điểm và luận điệu của những tín hữu này về ơn cứu độ, về vinh quang và vương quyền của Đức Kitô Phục Sinh hoàn toàn xa lạ với suy tưởng của Phaolô. Và đó chính là nguyên cớ gây ra những xáo trộn, cười nhạo các tín hữu sùng đạo, làm đổ vỡ tình hiệp nhất trong Cộng Đoàn. Những ai không dám sống theo trào lưu này hay gọi là theo “tinh thần thời đại” ấy, thì bị liệt kê vào hàng ngũ những kẻ “yếu đuối”, “lỗi thời”, và như thế là thiếu khôn ngoan. Chính vì điểm này mà Phaolô cố gắng làm sáng tỏ, minh giải sự khác biệt triệt để giữa sự khôn ngoan của thế gian và sự khôn ngoan theo Kitô giáo. Và đó cũng lý do mà “Lời rao giảng về thập giá là một sự điên rồ” được đề đưa ra ngay ở phần đầu Thư Thứ I gửi cho Cộng Đoàn tín hữu Côrintô:

Trong khi người Do Thái đòi hỏi những điềm thiêng dấu lạ, còn người Hy Lạp tìm kiếm lẽ khôn ngoan, thì chúng tôi lại rao giảng một Đấng Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do Thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa (1Cr 1,22-24)

Niềm xác tín của Phaolô trước mầu nhiệm Thập Giá (1Cr 2,6-16; 1Cr 14,18) như thế tỏ cho thấy chính Đức Kitô bị đóng đinh là “sự khôn ngoan của Thiên Chúa”, là Đấng duy nhất chuyển đạt ơn cứu độ. Đôi tay của Người dang rộng trên Thập Giá như một cử chỉ vừa tôn vinh Thiên Chúa, vừa diễn tả sự tự hiến trọn vẹn, hiện lên ý nghĩa cứu độ của cái chết vì tình yêu cho nhân loại. Phải nhận rằng Phaolô là tác giả tiên khởi trong Tân Ước đã vận dụng sâu sắc ý tưởng cốt yếu này của Hy Tế vào trong tiến trình tự hiến của Đức Kitô. Và nếu Thập Giá là trọng tâm niềm tin, thì ai đón nhận Đức Kitô là chấp nhận con đường Thập Giá, để được biến đổi trong tình yêu tự hiến hầu tìm được sự sống mới trong cuộc khổ nạn của Người, nghĩa là được tham dự vào sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Từ nhận thức này, khi cử hành việc tưởng niệm Hy Tế của Đức

Kitô, Cộng Đoàn các tín hữu được tháp nhập vào đời sống của Người, một đời sống hoàn toàn khai mở, đóng đinh chính mình và vượt ra khỏi bản thân, đồng thời có thể thông dự vào sự hiệp nhất cao cả, trọn vẹn nhất của Thánh Thể, đó là “nên một trong Đức Kitô” cùng với Bánh và Rượu được hiến thánh. Phaolô quả có lý khi tuyên bố: “Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết về chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào Thập Giá” (1Cr 2,2). Phải chăng bỏ qua chiều kích thương khó và tử nạn của Đức Kitô cũng là huỷ bỏ đi ý nghĩa chủ đạo, nguyên thủy của Hy Tế Thánh Thể, đánh mất lý do hiện hữu và chân tính của người Kitô hữu? Bởi vì, đối với Phaolô: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,15).

Chỉ trong một viễn tượng như thế, việc tưởng niệm Đức Kitô, trọng tâm của phụng vụ Thánh Thể, là “loan truyền Chúa đã chịu chết” mới thực sự chính đáng. Khi nhận lãnh Mình và Máu Đức Kitô, được đầy tràn tình yêu tự hiến của Người, các tín hữu được đưa vào mối hiệp thông với nhau, trở nên một Cộng Đoàn Giáo Hội, một Thân Mình trao hiến, hiện hữu và vận hành với tấm lòng rộng mở, sẵn sàng phục vụ, không còn sống cho riêng mình mà là trọn vẹn cho tha nhân, như Tấm Bánh “bẻ ra” ban sự sống và Chén Thánh “tuôn đổ” thành bí tích cứu độ muôn người. Phaolô đã thể nghiệm điều thực sự có ý nghĩa đó: “Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân mình chúng tôi” (2Cr 4,10). Mang nơi thân mình cuộc “thương khó” hay “sự chết” của Đức Kitô, theo ý hướng này, là mặc lấy tình yêu tự hiến của Người, để trở nên một với lễ vật dâng tiến trên bàn thờ. Việc bẻ bánh cũng như uống chung một chén trong cuộc tưởng niệm Thánh Thể là những dấu chỉ bí tích liên đới sâu sắc với thái độ sống và sự lựa chọn cơ bản của Đức Kitô trong bối cảnh mầu nhiệm Vượt Qua. Đó là điều kiện thiết yếu để lãnh nhận Giao Ước Mới, được đóng ấn bằng Máu Người đổ ra. Chính vì thế, Hy Tế Thập Giá đã khởi đầu từ trong Bữa Tối Sau Cùng với Đấng dứt khoát đã không dành cho mình bất cứ điều gì ngoài việc trao ban chính mình (1Cr 11,26). Do đó, theo trình thuật của Phaolô, việc thiết lập Thánh Thể diễn ra vào Bữa Tối “trong đêm bị nộp” (1Cr 11,23), trong khung cảnh mừng Lễ Vượt Qua, tương tự như các tác giả Tin Mừng Nhất Lãm (Mc 14,22-24; Mt 26,26-29; Lc 22,19-20), với hàm ý xác tín Đức Kitô là “Chiên Vượt Qua của chúng ta đã được hiến tế” (1Cr 5,7). Và nếu như Người đã hiến mình làm Hy Lễ như một Đấng chịu đóng đinh, thì quả thật, mỗi lần cử hành cuộc tưởng niệm Thánh Thể các tín hữu vừa chia sẻ Bữa Tiệc của Chúa vừa “loan truyền Chúa đã chịu chết” (1Cr 11,26), nghĩa là được dự phần vào mầu nhiệm Thập Giá, là bước vào cuộc sống mới, vào con đường tận hiến của một tình yêu đến tận cùng. Cũng chính nơi Đấng chịu đóng đinh với tình yêu tuyệt đối trọn vẹn đó Thiên Chúa và nhân loại giao hoà với nhau. Vì vậy, trong Hy Tế Vượt Qua này, Người đã trỗi dậy để mở toang cánh cửa sự chết cho vương quyền tình yêu hiển trị và ân huệ Phục Sinh tuôn tràn.

  • “Cho tới Ngày Chúa đến”

Thật vậy, đối với Phaolô, trong Bữa Tiệc của Chúa “hôm nay”, lời loan truyền “Chúa đã chịu chết cho tới ngày Chúa đến” cũng là lời loan báo về một Bữa Tiệc “ngày mai”, đó là Bữa Tiệc vĩnh cửu trong Nước Thiên Chúa. Thánh Thể hứa hẹn một Bữa Tiệc Hiệp Thông cánh chung và thúc đẩy Cộng Đoàn các tín hữu hướng tới tương lai khải hoàn vào “Ngày Chúa đến”, ngày mà tất cả tạo thành được hoàn toàn thông phần vào sự phục sinh vinh hiển của Đức Kitô. Thực tại diễn ra trong hiện tại, trong hình thái tiền dự, đã mang tính chất của thực tại tương lai. Vì thế, việc cử hành Thánh Thể của Cộng Đoàn các tín hữu là một hành vi đón nhận lấy tình yêu tự hiến của Đức Kitô đã được hoàn tất trên Thập Giá, để rồi hiệp thông với nhau trong tình yêu đó, cùng với Người và trong Người, không ngừng vươn tới ngày viên mãn, ngày Thiên Chúa sẽ là “tất cả mọi sự trong mọi người” (1Cr 15,28). Nơi Thánh Thể, Cộng Đoàn các tín hữu được thánh hiến trong niềm hy vọng, có thể tìm thấy bảo chứng cứu độ cho vinh quang tương lai, vì Lời Hứa của Thiên Chúa, theo “thánh ý nhiệm mầu ấn định trước mọi thời đại” (1Cr 2,6-10; Cl 1,24-29; Ep 1,9; 3,1-12) vẫn còn tiếp tục vang vọng trong những thực tại của lịch sử trần thế, tiên báo một sự sống hiệp thông đích thực và chung kết.

  • Kết Luận

Tất cả nhận thức thần học và linh đạo về Thánh Thể của Thánh Phaolô, đặc biệt trong các Thư gửi cho Cộng Đoàn tín hữu Côrintô, liên quan tới việc tụ họp nhau để cử hành và tham dự Bữa Tiệc của Chúa, Bữa Tiệc Hiệp Thông với ý hướng tưởng niệm Đức Kitô, được tóm kết cách sâu sắc trong Bài Ca Đức Ái (1Cr 13, 4-8). Nếu Thánh Thể là cảnh vực thánh thiêng cho cuộc gặp gỡ thân mật giữa Đức Kitô và các tín hữu, để Người đích thân hiện diện và chủ động tháp nhập họ vào Thân Mình duy nhất của Người, thì đức ái hiển nhiên trở thành nguyên lý và tiêu chuẩn tối hậu cho tất cả đời sống cũng như sinh hoạt phụng tự của Cộng Đoàn Giáo Hội. Thật vậy, Phaolô xác tín rằng hiệp thông Thánh Thể thực sự kiến tạo hiệp thông Cộng Đoàn, và hiệp thông Cộng Đoàn cần thiết cho sự triển nở của hiệp thông Thánh Thể. Với chiều hướng suy tưởng theo viễn tượng giao thoa tương tác này, thì sự hiệp thông giữa các tín hữu với Đức Kitô và với nhau trong Thánh Thể chỉ có thể hiểu và sống trọn vẹn theo khuôn thước của đức ái, vì đức ái làm sáng tỏ ý nghĩa hiệp thông như là hiệu quả bí tích của Thánh Thể. Phaolô viết:

Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả (1Cr 13, 4-8).

Với cảm thức chân thực và diễn giải hùng biện như thế, Phaolô cho thấy đức ái hiển hiện như là khởi điểm, một đặc sủng ưu việt, cao trọng hơn mọi đặc sủng để có thể làm nền tảng cho mọi thứ ân huệ khác (1Cr 13,1-13; 8,1-2). Theo nghĩa này, chỉ có đức ái mới mở rộng mối hiệp thông, khắc họa quy luật thực tiễn, hiện sinh của Thánh Thể, nhằm xây dựng và gìn giữ Cộng Đoàn với tư cách là “Thân Mình của Đức Kitô” (1Tm 1,1; 1Cr 10,17; 11,33; Gl 3,28). Nhưng đáng tiếc, những hiện tượng tiêu cực diễn ra ở Côrintô với những chia rẽ bất hoà, thiếu tình bác ái, đã làm mất đi nội dung đạo lý lành thánh của Thánh Thể. “Bữa tối của Chúa” trở thành bữa tiệc phàm tục, phân chia bè phái, đồng thời gây ra nhiều phản ứng khác nhau trong Cộng Đoàn (1Cr 11, 20). Do đó, như một phương thức “hộ giáo”, Phaolô tìm về với truyền thống và kinh nghiệm cội nguồn của Thánh Thể, để nhắc nhở các tín hữu phải nắm giữ và thấm nhuần điều mà họ đã được lãnh nhận từ lúc khởi đầu, với hy vọng khai sáng lại niềm tin vào Đức Kitô trong sự gắn bó trọn vẹn với Tin Mừng. Và như để “trả lẽ” cho niềm tin chân truyền trong sự đối chất với luồng tư tưởng “tục hoá” mầu nhiệm thánh thiêng, Phaolô đã minh hoạ những hình ảnh trội vượt, diễn đạt những chiều kích trung tâm cũng như những đòi hỏi sâu xa nhất của thực tại Thánh Thể. Thật vậy, cử hành Thánh Thể chủ yếu là tham dự vào “Bữa Tối của Chúa” (1Cr 11, 20), là thực thi lệnh truyền của Đức Kitô trong Bữa Tối Sau Cùng: “Hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Thầy” (1Cr 11,24,25). Và “tưởng nhớ đến Thầy” là tưởng nhớ đến tình yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh, cho lòng trí thấm hút vào tình yêu hiến tế đó. Vì thế, Thánh Thể lôi kéo các tín hữu dự tiệc vào trong chính cách thế hiện hữu mang tính vượt qua của Đức Kitô, thúc bách họ hiến thân hiệp thông với Người, để cùng nhau ăn Bánh ban sự sống, cùng nhau uống Chén cứu độ mà tưởng nhớ đến Người.

Chỉ như thế, trong luận điểm của Phaolô, Bữa Tiệc của Chúa, cuộc Tưởng Niệm Hy Tế Thập Giá và Bữa Tiệc Hiệp Thông mới trở nên một kinh nghiệm duy nhất cho đời sống cũng như phụng tự Kitô giáo, và Thánh Thể mới chân thật, đúng nghĩa. Thánh Thể là dấu ấn tình yêu tự hiến của Đức Kitô và là nguồn mạch sự sống của Cộng Đoàn các tín hữu. Chính vì tình yêu mà Người đã vâng phục Thiên Chúa đến độ “tự hạ”, để trao hiến thân mình cho nhân loại. Cũng thế, nhờ tình yêu Người thúc đẩy, Phaolô mới nhiệt tâm rao giảng Tin Mừng và “truyền lại” cho Cộng Đoàn Côrintô điều người đã “lãnh nhận từ nơi Chúa” (1Cr 11,23). Như thế, mục đích chính yếu của Thánh Thể không chỉ để biểu lộ lòng sùng kính cá nhân, hay để chu toàn bổn phận tế tự trong “Ngày của Chúa”, mà tiên vàn là cử hành cuộc tưởng niệm Đức Kitô, tham dự vào hành vi hiến tế của Người, hầu trở nên một Thân Mình duy nhất, vì khi thiết lập Thánh Thể, Người thiết lập Cộng Đoàn các tín hữu. Và do đó, đối với Phaolô, chỉ có một Bữa Tiệc của Chúa, một Cộng Đoàn cử hành nghi lễ Tưởng Niệm Đức Kitô, Đấng đã một lần đến trong lịch sử và sẽ đích thân ngự đến, vì tình yêu của Người là bất tử bất tận: “Đức mến không bao giờ biến mất” (1Cr 13,8). Chính trong việc cử hành Thánh Thể, “loan truyền Chúa đã chịu chết” mà Cộng Đoàn các tín hữu được thể hiện rõ nét, đồng thời diễn tả và kiến tạo mối hiệp thông, cho lòng trí ngưỡng vọng về một tương lai vinh phúc, hướng tới sự hiệp nhất chung cuộc trong Bữa Tiệc của Nước Thiên Chúa.

Lm. Phaolô Vũ Chí Hỷ, SSS

Bài viết liên quan

Back to top button